(Người Kỳ Anh) Kênh đào nhà Lê được làm từ thời vua Lê Hoàn vào năm 983, trải qua nhiều thế kỷ, hiện nay một số đoạn kênh tại Hà Tĩnh vẫn còn nguyên vẹn, khung cảnh rất đẹp.
Kênh nhà Lê được xây dựng từ thời vua Lê Đại Hành, hoàn thiện từ thời vua Lê Lợi, kéo dài từ Ninh Bình tới Hà Tĩnh. Tại Hà Tĩnh, nơi bắt nguồn kênh nhà Lê nằm ở ngã ba Sông Lam, nối giữa xã Đức Vĩnh (huyện Đức Thọ) và huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Đoạn kênh qua địa phận Hà Tĩnh sâu khoảng 3-5 m, rộng trung bình 10 m, dài hơn 100 km, chảy quanh co qua làng mạc của các huyện Đức Thọ, Hồng Lĩnh, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, thị xã Kỳ Anh rồi đổ ra biển.
Thời vua Lê Đại Hành, hệ thống kênh đào cổ này dùng để vận tải quân lương về phía Nam Đại Cồ Việt nhằm mở rộng lãnh thổ phía Nam và phát triển kinh tế nông nghiệp nước nhà. Kênh được xem là tuyến đường thủy nội địa từ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình), nối liền các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Đến thời Lý, Trần, kênh là đường quân sự để chiến thuyền đi đánh quân xâm lược; tới thời vua Lê Lợi, hệ thống kênh đào được hoàn chỉnh.
Theo sử sách, để đào kênh, nhà vua đã ra sắc chỉ. Địa phương nào nhận được chỉ thị thì phải huy động người dân tới làm, qua thời gian, các thế hệ cứ thế nối tiếp bồi đắp, nạo vét để giao thương đi lại buôn bán. Ông Lê Bá Hạnh, Phó giám đốc Bảo tàng Hà Tĩnh cho biết, trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ những lùm cây cối um tùm ở nhiều đoạn kênh nhà Lê tại Hà Tĩnh thường được dùng để giấu khí tài, đạn dược giúp tiền tuyến đánh giặc. Đây cũng là nơi lưu dấu ấn của vua Lê Lợi trong thời gian lập căn cứ Đỗ Gia (chống quân Minh).
Một số nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa cho hay, kênh đào nhà Lê là tổng hòa của mọi tác dụng từ kinh tế tới quân sự, là nơi kết nối với mọi miền đất nước. "Những dấu tích, hiện trạng nguyên vẹn của kênh nhà Lê cần được bảo tồn để thế hệ sau biết được giá trị của một công trình ghi dấu ấn lịch sử, tồn tại qua nhiều thế kỷ và hiểu rõ truyền thống hào hùng của cha ông"
Đoạn sông Nhà Lê phía nam Hà Tĩnh là đoạn cuối cùng mang tên sông Nhà Lê, nó khởi đầu từ sông Rác tại xã Cẩm Lạc, Cẩm Xuyên chảy qua xã Cẩm Minh rồi đi vào huyện Kỳ Anh (qua các xã: Kỳ Phong, Kỳ Tiến, Kỳ Giang, Kỳ Phú, Kỳ Đồng, Kỳ Khang, Kỳ Thọ, Kỳ Ninh rồi đổ ra biển tại cửa khẩu vịnh Vũng Áng. Khu vực này nằm sát chân Đèo Ngang, vốn là ranh giới giữa Đại Cồ Việt và Chiêm Thành thời Tiền Lê.
Ông Thái Kim Đỉnh, nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, địa chí Hà Tĩnh cho rằng, kênh nhà Lê đoạn phía nam của Hà Tĩnh là kênh đào cổ xưa, dài khoảng 35 km, rộng trung bình từ 15-20 m, có đoạn rộng từ 25-30 m, là hệ thống những đoạn kênh đào nối với các sông tự nhiên đã có sẵn. Kênh được khởi đào từ thời Tiền Lê với mục đích quân sự. Sau đó, trải qua các triều đại phong kiến khác, kênh nhà Lê ở phía nam Hà Tĩnh được đào, nắn thẳng và khơi sâu thêm nhằm phục vụ cho mục đích quân sự, giao thương giữa các vùng miền Hà Tĩnh với nhau và giữa Hà Tĩnh với các tỉnh phía bắc.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Giáp Dần năm Long Khánh thứ 2, đời vua Trần Duệ Tông (1374), tháng 3 xuống chiếu cho Thanh Hóa, Nghệ An đào kênh đến cửa biển Hà Hoa” (Vũng Áng). Theo nhà nghiên cứu Đào Tam Tỉnh, đó là hệ thống những kênh đào nối sông Đáy ở cửa Thần Phù với các sông tự nhiên khác. Trước đó, thuyền bè từ bắc vào đến phía nam Hà Tĩnh phải đi ra cửa Nhượng Bạn (cửa sông Rác, thuộc xã Cẩm Nhượng hiện nay) để ra biển rồi mới vào châu Ô, châu Lý. Để tránh bớt nguy hiểm từ việc phải đi đường biển quá xa, vua Trần Duệ Tông đã sai đào sông cho thông vào đến Cửa Khẩu (Vũng Áng), tránh được đoạn đường biển nguy hiểm này. Sau khi kênh được đào thông từ sông Rác vào Cửa Khẩu, năm 1377, đoàn chiến thuyền của vua Trần Duệ Tông đã sử dụng con kênh này.
Cửa biển này từng ghi dấu nhiều sự kiện của đất nước, đặc biệt là các sự kiện liên quan đến các cuộc xung đột giữa Đại Việt và Chiêm Thành, Trịnh - Nguyễn. Nhiều vua chúa, đại thần các triều đình trên đường nam chinh từng dừng chân tại cửa biển để vãn cảnh, làm thơ hoặc chọn nơi này xây dựng căn cứ để chống kẻ thù. Hiện nay, đây là cảng biển quy mô gắn liền với khu kinh tế Vũng Áng thu hút được nhiều dự án công nghiệp lớn.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, bộ đội Việt Nam đã lợi dụng kênh nhà Lê để vận chuyển lương thực, vũ khí từ các huyện Thạch Hà, Can Lộc, Nghi Xuân… vào vùng chiến lược đèo Ngang. Bên cạnh đó, lợi dụng vào hướng chảy, sự giao thoa của kênh nhà Lê với hệ thống sông, suối tự nhiên vùng giáp ranh với tỉnh Quảng Bình, những năm 1967-1970, bộ đội Việt Nam đã đưa lương thực, vũ khí từ miền Bắc theo đường biển vào cửa vịnh Vũng Áng, ngược lên các huyện miền núi phía bắc Quảng Bình rồi sau đó đưa vào chiến trường Quảng Trị, Khu 5.
Nguy cơ thành kênh lấp
Qua quá trình bồi lấp tự nhiên cộng với tác động bởi bàn tay con người và không được nạo vét nên hiện nay, kênh nhà Lê ở đoạn cuối này đã bị nắn dòng chảy, nhiều đoạn không còn thông dòng như trước. Điểm rộng nhất của kênh nhà Lê ở phía nam Hà Tĩnh khoảng hơn 30 m, sâu 12 m thuộc đoạn gần cửa Hải Khẩu, xã Kỳ Ninh và cửa vịnh Vũng Áng. Nhưng có nhiều điểm hiện còn rất hẹp, chỉ từ 3-4 m. Thậm chí, kênh nhà Lê tại điểm giáp ranh giữa hai xã Cẩm Minh, Cẩm Lạc hiện chỉ còn là dấu tích với một rạch nước nhỏ chảy ngoằn ngoèo, có nơi bị cạn trơ đáy hoặc nước chỉ đến đầu gối. Một số đoạn thậm chí đã bị lấp, biến thành ruộng lúa, bãi bồi trồng ngô, khoai, sắn…
Kênh nhà Lê chảy qua địa bàn xã Cẩm Minh dài khoảng 5 km, theo người dân ở đây cho biết trước lòng kênh khá rộng. Nhưng từ nhiều năm nay, kênh này đã bị bồi lấp, ít phục vụ cho công tác thủy lợi hoặc thoát nước cho những cánh đồng lúa lớn của xã Cẩm Minh do nguồn nước tưới cho khu vực này được dẫn từ thượng nguồn sông Rác, sông Trí bằng những con mương đã được bê tông hóa.
Ở xã Cẩm Lạc và Kỳ Phong, kênh nhà Lê vẫn còn tác dụng dẫn nước tưới cho sản xuất nông nghiệp. Vào mùa khô hàng năm, khi nguồn nước trở nên khan hiếm, người dân hai xã này thường đặt nhiều máy bơm nước loại nhỏ dọc kênh nhà Lê vét nước từ lòng kênh, bơm tưới cho những ruộng lúa, ruộng hoa màu ở hai bên kênh. Người dân sống dọc hai bên kênh (đoạn giáp ranh giữa cửa Hải Khẩu, thuộc xã Kỳ Ninh và cửa vịnh Vũng Áng) vẫn đang sử dụng kênh để phục vụ vận chuyển nông sản và phục vụ sản xuất.
Người Kỳ Anh (tổng hợp)